Tiểu sử và Binh nghiệp Dư_Quốc_Đống

Ông sinh ngày 21 tháng 12 năm 1932 trong một gia đình điền chủ khá giả tại làng Vĩnh Thanh Vân, Minh Lương, Rạch Giá, miền Tây Nam phần Việt Nam. Thiếu thời, ông học ở trường Tiểu học Tư thục Võ Thành Trứ tại Rạch Giá. Khi lên Trung học, ông được gia đình cho lên Sài Gòn học ở trường Tư thục Guillerault Chasseloup Laubat. Năm 1950, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Đầu tháng 4 năm 1951, sau khi tốt nghiệp Trung học Phổ thông, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 52/120.247. Theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1951. Ngày 24 tháng 4 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chọn vào đơn vị Nhảy Dù[2]

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Đầu tháng 11 năm 1955, sau khi chuyển từ Quân đội Quốc gia sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Trung úy giữ chức Đại đội trưởng của Tiểu đoàn 1 Nhảy dù. Đầu năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy và giữ chức Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1 Nhảy dù. Tháng 11 năm 1960, ông được lên giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng thay thế Thiếu tá Trần Văn Đô.[3]

Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1961, ông được đặc cách ở mặt trận, thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Đầu tháng 1 năm 1962, Lữ đoàn Nhảy dù thành lập Chiến đoàn, ông được chỉ định giữ chức vụ Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 1 Nhảy dù tân lập. Đầu năm 1963, ông được thăng cấp Trung tá bàn giao Chiến đoàn 1 lại cho Thiếu tá Trương Quang Ân để giữ chức vụ Tư lệnh phó Lữ đoàn Nhảy dù dưới quyền Tư lệnh của Đại tá Cao Văn Viên.

Tháng 9 năm 1964, ông được thăng cấp Đại tá, được cử giữ chức vụ Quyền Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù thay thế Thiếu tướng Cao Văn Viên[4]. Ngày 1 tháng 11 cùng năm, nhân kỷ niệm lần thứ nhất ngày đảo chính (1/11/1963) thành công, ông được thăng cấp Chuẩn tướng và trung tuần tháng 12, ông chính thức được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy Dù.[5] Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Ngày 1 tháng 7 năm 1970, ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm.

Ngày 11 tháng 11 năm 1972, ông bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù lại cho Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng (nguyên Tư lệnh phó của Sư đoàn). Ngày 2 tháng 2 năm 1973, ông được cử làm Trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa trong Uỷ ban Quân sự 4 bên thay thế Thiếu tướng Ngô Dzu. Đầu tháng 11 năm 1973, chuyển ra Duyên hải miền Trung, ông đảm nhiệm chức vụ vụ Chỉ huy trưởng Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang thay thế Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh, sau khi bàn giao chức vụ Trưởng đoàn Quân sự 4 bên lại cho Trung tướng Cao Hảo Hớn. Ngày 1 tháng 11 năm 1974, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Quân khu 3, hoán chuyển nhiệm vụ với Trung tướng Phạm Quốc Thuần[6]